Bài đăng

Đang hiển thị bài đăng từ Tháng 4, 2020

NGUYÊN LÝ KHỞI LỆ CỦA QUAN PHÙ

Hình ảnh
“Lịch lệ” nói rằng: “Quan phù là hung thần của Tuế, chủ về việc kiện tụng đến quan nha. Chỗ phương nó quản không thể khởi công động thổ, phạm vào thì mắc phải kiện tụng, tù tội. Thường đóng ở trước Tuế bốn thời.”      Còn ông Tào Chấn Khuê thì nói rằng: “Quan phù là quan cầm phù tín trong Tuế, chức quyền về văn. Thường đóng tam hợp ở thời trước. Giả như thời lệnh của Tuế là Dần. Dần Ngọ Tuất là tam hợp, thì Ngọ là Quan phù văn quyền. Ngoài ra phỏng theo như thế”. Lượng Thiên Xích chú: “Xét theo nghĩa như trên thì thấy rằng, Quan phù chẳng phải là tam hợp với Thái tuế hay sao? Vậy tại sao tam hợp với Tuế mà lại nói là hung được? Kỳ thực không thể gộp lại làm một mà nói được, bởi tam hợp với Tuế, tức là tính đến khí Ngũ hành sinh diệt, cứ y theo vòng Trường sinh mà khởi. Còn Quan phù là chỉ về sự vận động, tương tác với bản thể của Tuế. Có mười hai Tuế thì có mười hai sự vận động, tương tác, Tử vi gia gọi đó là vòng Thái tuế vậy. Gồm có: Thái tuế, Thiếu dương, Tang ...

Đổng Trọng Thư với Nho giáo

Đổng Trọng Thư người Quảng Xuyên (thuộc huyện Táo Cường tỉnh Hà Bắc hiện nay), sinh năm 179 TCN. Ông xuất thân trong một gia đình đại địa chủ, thuở nhỏ đã khổ công học tập, nổi tiếng là “ba năm không ngó tới điền viên” nhằm dốc lòng nghiên cứu “Công dương Xuân Thu truyện”. Thời Hán Cảnh Đế (156 TCN – 141 TCN) đã nhậm chức Bác sĩ (quan chuyên giảng dạy về kinh điển của Nho gia). Sơ lược tiểu sử Đổng Trọng Thư người Quảng Xuyên (thuộc huyện Táo Cường tỉnh Hà Bắc hiện nay), sinh năm 179 TCN. Ông xuất thân trong một gia đình đại địa chủ, thuở nhỏ đã khổ công học tập, nổi tiếng là “ba năm không ngó tới điền viên” nhằm dốc lòng nghiên cứu “Công dương Xuân Thu truyện”. Thời Hán Cảnh Đế (156 TCN – 141 TCN) đã nhậm chức Bác sĩ (quan chuyên giảng dạy về kinh điển của Nho gia). Lúc Hán Vũ Đế (140 TCN -87 TCN) chọn người hiền lương có học vấn, ông lần lượt vâng chiếu ba lần trả lời đối sách, dâng vua bài Thiên nhân tam sách nổi tiếng. Vũ Đế đánh giá cao kiến nghị “bãi bỏ bách gia, độc tôn Nho họ...

Khởi đầu của khoa mệnh lý đẩu số

Khoa mệnh lý Đẩu Số còn gọi là Tử Vi Đẩu Số . Ngày nay lật xem các thư tịch liên quan đến Đẩu Số, có môt số tác giả vì để có tính hoàn chỉnh của việc mình được chân truyên, hoặc nhiều hoặc ít họ đều có một chuyên luận viết về khởi nguồn và diễn biến của môn Đẩu Số, nhưng nhìn chung các thuyết của họ, người viết phát hiện, nguồn gốc và lịch sử diễn biến của khoa Đẩu Số rất là rối rắm và có nhiều chỗ bất đồng, hầu như không có tính thống nhất. Thậm chí khảo ngược lên nguồn gốc, có thuyết nói Đẩu Số bắt nguồn từ môn chiêm tinh của Ấn Độ truyền qua Tây Vực vào Trung Quốc; hoặc có thuyết nói Đẩu Số có nguyền gốc từ Quỷ Cốc Tử thời Chiến quốc; lại có thuyết nói rằng Đẩu Số vốn xuất phát trực tiếp từ Đạo Giáo… Đối diện với các thuyết khác nhau như triên, người ta không khỏi hoài nghi, rốt cuộc thì sự thật là thế nào? Thực ra đối với các khoa mệnh lý học của người Trung Hoa, về căn bản đều đã có cơ sở rất sớm từ thời Chiến Quốc. Đến thời Hán thì các học thuyết về chiêm tinh, mệnh lý… mới địn...

Hướng dẫn đăng bài gieo quẻ hỏi việc

Hướng dẫn đăng bài hỏi quẻ Dịch – Quy định về nội dung bài đăng dành cho các bạn tham gia group facebook https://www.facebook.com/groups/433808936972562/ Trước tiên để tôi giải thích việc tại sao chúng ta phải chỉn chu trong việc đăng bài hỏi đến thế. Xin mượn lời quẻ Sơn Thủy Mông là 1 quẻ nhắc đến chuyện bói toán trong Kinh Dịch: “蒙: 亨, 匪我求童蒙, 童蒙求我. 初筮告, 再三瀆, 瀆則不告. 利 貞 – Mông: hanh, phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã. Sơ phệ cáo, tái tam độc, độc tắc bất cáo. Lợi trinh” Chúng tôi không đến tìm bạn, mà bạn tìm đến chúng tôi để làm rõ những điều chưa rõ trong lòng, bạn cần kiên trì và tập trung chứ không thể hỏi tùy tiện, hỏi 1 lần đúng nghi vấn ở trong lòng bạn thì có thể biết câu trả lời, hỏi đi hỏi lại sẽ không thể trả lời được nữa. Vì vậy, để ghi nhận được bạn thực sự tìm được đúng điều bạn nghi vấn trong lòng, chúng tôi cần bạn làm đúng và đầy đủ theo các bước sau: 1 – Các bạn đăng hình ảnh quẻ an được sau khi gieo Để tự lấy quẻ theo giờ bạn động tâm: https://hocvienly...

Xem tướng số của bạn qua dáng đi

Xem tướng số của bạn qua tướng đi Mỗi người đều có tư thế đi của mình Xem tướng số của bạn qua tướng đi Mỗi người đều có tư thế đi của mình. Vì vậy bước, nhịp hoặc tư thế đi trong giao tiếp thường ngày có thể cho biết những đặc trưng tính cách và tâm lý cụ thể của họ. Có thể khẳng định rằng, tâm trạng, tính tình hoàn toàn có thể làm thay đổi tư thế đi của một người. Khi nhịp đi của người đó nhanh hơn bình thường, chúng ta có thể đoán rằng anh ta đang phấn khởi. Nếu một người đi lang thang thì nhất định anh ta đang bị cú sốc nào đó. Nếu một người đi hai vai rũ xuống, bước đi nặng nề thì khẳng định trong lòng anh ta cũng đang nặng trĩu. Dáng đi chữ bát Hai gót bàn chân hướng vào hai đầu bàn chân hướng ra thành hình chữ bát. Khi đi tuy dùng lực, nhưng dáng vẻ tỏ ra rất vội vàng, nửa thân trên hay lắc sang trái sang phải. Dáng đi này có hàm nghĩa tâm lý và đặc trưng tính cách như sau: Bảo thủ : Nói chung dáng đi chữ bát không đẹp tí nào, nhưng vì họ đã quen đi như thế, đi...

HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG – PHẦN 1

Hình ảnh
HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG – PHẦN 1 Căn cứ nhận xét lâu đời về giới thiệu tự nhiên, người xưa đã nhận xét thấy sự biến hoá không ngừng của sự vật (Thái cực sinh lưỡng nghi, lương nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Lưỡng nghi là âm và dương, tứ tượng là thái âm, thái dương, thiếu âm và thiếu dương. Bát quái là càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn và đoài). Người ta còn nhận xét thấy rằng cơ cấu của sự biến hoá không ngừng đó là ức chế lẫn nhau, giúp đỡ, ảnh hưởng lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau và thúc đẩy lẫn nhau. Để biểu thị sự biến hoá không ngừng và qui luật của sự biến hoá đó, người xưa đặt ra “thuyết âm dương”. Âm dương không phải là thứ vật chất cụ thể nào mà là 2 thuộc tính mâu thuẫn nằm trong tất cả mọi sự vật, nó giải thích hiện tượng mâu thuẫn chi phối mọi sự biến hoá và phát triển của sự vật. Phân chia Âm dương Nói chung, phàm cái gì có tính chất hoạt động, hưng phấn, tỏ rõ, ở ngoài, h ư ớng lên, vô hình, nóng rực, sáng chói, rắn chắc, tích cực đều thuộc dươn...

Gieo quẻ hỏi việc xem bệnh tật

Hình ảnh
Kinh Dịch là một bộ môn triết học cổ ẩn chứa rất nhiều sự vi diệu của cuộc sống. Không những là môn triết học tìm hiểu về nhân sinh quan, thế giới quan của người xưa, Kinh Dịch còn là một môn dự trắc rất sâu rộng. Hầu hết các vấn đề của cuộc sống, chúng ta đều có thể tìm được lời giải đáp dựa vào phương pháp gieo quẻ . Trong kho tàng Dịch Học Đông Phương có rất nhiều ghi chép về những nghiệm chứng của tiền nhân để lại, trong đó đáng chú ý là các nghiệm chứng kết hợp Dịch Lý và Y Lý để chẩn bệnh cứu người. Sách Tăng San Bốc Dịch , Dã Hạc Lão Nhân có để lại một chứng nghiệm rất có giá trị về mặt học thuật như sau: Một hôm, mới đầu canh một đã có người gõ cửa nói rằng: “Cậu chủ nhà tôi có bệnh, xin mời thầy đến xem giúp một quẻ.” Ta (Tức Dã Hạc Lão Nhân) hỏi xem mắc bệnh bao giờ? Đáp rằng từ Sơn Đông trở về liền mắc bệnh. Ta liền tự xem một quẻ, lúc đó ngày Nhâm Tý, tháng Mùi, được quẻ Tiết biến Tỷ. Hào tài tị hỏa trì thế, được hảo tử tôn động tương sinh nên đi sẽ có ích. Khi đến nh...

Thế đứng của Tử vi

Thế đứng của  Tử vi ( Cục ) trong lá số đóng vai trò rất quan trọng. Hãy xem Tử vi đóng ở cung nào để biết môi trường đương số sống ra sao. Chưa cần biết Mệnh đương số đóng ở đâu, chỉ cần liếc qua thế đứng của tử vi là đã đoán được đương số thuộc thành phần nào trong xã hội. Người xưa thường nói: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”. “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”. Tử vi – Tý Ngọ: Một người có Mệnh đóng ở bất cứ cung nào trong thể Tử vi Tí Ngọ thì cuộc đời cũng vẫn tương đối đàng hoàng vì giao thiệp với giới thượng lưu trong xã hội thái bình thịnh trị, trên dưới phân minh. Có phúc thì Mệnh nằm trong các cung Tí Ngọ nắm được Tử vi, hay cung Dần Thân nắm Vũ Tướng, hoặc cung Thìn Tuất nắm Liêm Phủ. Ít may mắn hơn thì Mệnh nằm ở các cung khác, tuỳ theo cấp độ đắc hãm của các sao còn lại. Tử vi – Tị-Hợi : Một người có thể Tử vi đi với Thất sát ở Tị, Hợi là thoát ly gia đình nhưng thành công sớm Tử vi Thìn Tuất : Một người có thế Tử vi đi với Thiên tướng ở Thìn – Tuất, thì có danh nh...

Lục hào, Dụng thần lưỡng hiện

Chính là chỗ lục thân xuất hiện ở trong một quẻ có hai chỗ đại biểu chiêm sự, thì chúng ta gọi hiện tượng này là “Dụng thần lưỡng hiện”, lúc này phải căn cứ quy luật nhất định để phân tích cái nào là dụng thần. Quy luật như sau: Trước tiên thủ hào động, bởi vì động tất có nguyên nhân, trong《 Tăng  》có nói: “Thần triệu cơ ở động.”; Nếu như hai hào đều động hoặc là đều không động, lúc này thủ hào tuần không hoặc là nguyệt phá; Nếu như đều không có Không Phá, lại tiếp tục thủ hào phùng xung, hợp; Nếu như đều không có xung hợp, thì thủ hào lâm Thế hoặc Ứng; Nếu như ở trên đều không có, thì lúc này có thể thủ hào lâm Nhật, Nguyệt hoặc là hào gần Thế; Nếu như từ những chỗ này vẫn không thể phán đoán ra, vậy thì có thể tham khảo lục thần để thủ. Đây chính là lúc thủ pháp Dụng thần lưỡng hiện, nhưng phải linh hoạt biến thông, nếu như lúc có một Không một Phá, cũng có thể xem hoàn toàn, nhưng phải có phân ra Chủ và Thứ, cũng chính là nói một cái làm dụng thần, còn một cái khác ở tr...

NGUỒN GỐC, CƠ SỞ VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHONG THỦY (PHẦN 2)

1.2. Lý luận khám dư thời Tần Hán. Trải qua khoảng trên một ngàn năm lịch sử, thuật “Tướng Trạch” tới đời Hán là tập đại thành, các phái hệ lý luận của phép xem tướng nhà (tức thuật Tướng Trạch) được hoàn chỉnh và thành thục. Có thể nói, môn Phong Thủy mà chúng ta biết được ngày nay chính là hình thành trên mô thức thuật “Tướng Trạch” đời Hán. Thuật “Tướng Trạch” đời Hán chủ yếu của có 4 đặc điểm như sau: 1- Thuật “Tướng Trạch” đời Hán bắt đầu có lý luận “Kham Dư” tức lý luận thời gian và không gian đối ứng tương đối hoàn bị; trong đó thuật chọn ngày (tức thuật Trạch Cát) và phép xem tướng đất (tức thuật Tướng Địa) được kết hợp hữu cơ trong một môn học thuyết, cổ nhân gọi học thuyết này là “Thiên Địa lý luận” (Lý lẽ của Trời Đất). 2- Trong lý luận này, người xưa đã đặt ra các phép tắc cụ thể cho một môn học mà người đời Hán gọi là “Đồ Trạch thuật”. Do lý luận “Khám Dư” là một lý luận kết hợp giữa phép chọn ngày giờ và phép xem tướng đất, cho nên “Đồ Trạch thuật” là đại biểu cho một ...

Chư thần luận đoán (Dụng thần) – chương 5

Dụng thần (Một) Đạo thủ dụng, Dụng thần thông biến, lục thân chuyển hoán. Trong chiêm bốc Lục Hào tiến hành đầu tiên nhất chính là thủ Dụng thần , Dụng thần là hạt nhân của chiêm bốc Lục Hào, tất cả sự vật cát hung cùng phát triển đều quay quanh Dụng thần mà phân tích, suy đoán. Chỗ nói “Dụng thần” chính là chỗ chúng ta tìm ra được đại biểu ở trong quẻ gốc (tức là lúc chúng ta gieo quẻ được) chiêm hỏi sự việc . Thủ dụng thần lấy ý lục thân để thủ, đây là quy định bất biến. Nếu như vấn đề này bạn không giải quyết, thì chỗ đàng sau sẽ không có bất kỳ ý nghĩa nào. Nhưng vấn đề này cũng có điểm khó, có người học cả đời cũng không thể nắm được độ chuẩn khi lấy dụng thần trong quẻ, cho nên bạn cần phải không ngừng tổng kết đạo lý từ trong cuộc sống, mới có thể hiểu thông đạo lý thủ dụng thần. Quy luật như sau:1, Lấy chỗ lục thân đại biểu sự, vật, con người mà đi thủ Dụng thần (đại biểu Lục thân xem phần h...